Hướng dẫn cách cúng bái, nghi thức cúng gia tiên theo đúng nguyên tắc phong tục tập quán, định nghĩa của cúng, khấn, vái và lạy.
I. Nghi-Thức Cúng Gia-Tiên
Khi
cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc
“đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn
cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi
những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương)
đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa
lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên
quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình
ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu
nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn
rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu
bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì
phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn,
Vái, và Lạy.
cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc
“đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn
cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi
những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương)
đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa
lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên
quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình
ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu
nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn
rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu
bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì
phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn,
Vái, và Lạy.
II. Định-Nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy
a. Cúng
Khi
có giỗ Tết, gia-chủ bày hoa (bông) quả, nước, rượu, cỗ-bàn, chén bát,
đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp đèn, đốt nến
(đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu-kính, biết ơn, và cầu
phước-lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình-thường, cúng là
thắp nhang (hương), khấn, lạy,và vái.
b. Khấn (*)có giỗ Tết, gia-chủ bày hoa (bông) quả, nước, rượu, cỗ-bàn, chén bát,
đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp đèn, đốt nến
(đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu-kính, biết ơn, và cầu
phước-lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình-thường, cúng là
thắp nhang (hương), khấn, lạy,và vái.
Khấn
là lời cầu-khẩn lầm-rầm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ
liên-quan đến các chi-tiết về ngày tháng năm, nơi-chốn, mục-đích buổi
cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời
hứa.
là lời cầu-khẩn lầm-rầm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ
liên-quan đến các chi-tiết về ngày tháng năm, nơi-chốn, mục-đích buổi
cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời
hứa.
Sau khi khấn, người ta thường
vái vì vái được coi là lời chào kính-cẩn. Người ta thường nói khấn vái
là vậy. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ khấn vái trong câu “Lầm rầm
khấn vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.” (câu 95-96)
c. Váivái vì vái được coi là lời chào kính-cẩn. Người ta thường nói khấn vái
là vậy. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ khấn vái trong câu “Lầm rầm
khấn vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.” (câu 95-96)
Vái
thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái
thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để
trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau
đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi
ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái (xem
phần sau).
d. Lạy
Lạy
là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn và
thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có
hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường
hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang
ý-nghĩa khác nhau.
- Thế Lạy Của Đàn Ông
Thế
lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước
ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp
xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp
xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp
đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng
cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên
và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà
đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái
đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy
(xem phần Ý-Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái ba vái rồi
lui ra.
lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước
ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp
xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp
xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp
đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng
cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên
và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà
đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái
đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy
(xem phần Ý-Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái ba vái rồi
lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay
chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy
trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn-bị
cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn
tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo
kiểu này rất khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái xuống trước
vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng cho khỏi
ngã. Khi chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về phía
trước được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy
trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn-bị
cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn
tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo
kiểu này rất khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái xuống trước
vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng cho khỏi
ngã. Khi chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về phía
trước được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế
lạy phủ-phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa
hai tay chống xuống ngay mặt đất và đồng-thời quì hai đầu gối xuống
luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà
không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy
đã tập-luyện hằng-ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh-thoảng quí cụ mới
đi lễ chùa, phải cẩn-thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của
mấy Thầy thì rất có thể mất thăng-bằng.
- Thế Lạy Của Đàn Bàlạy phủ-phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa
hai tay chống xuống ngay mặt đất và đồng-thời quì hai đầu gối xuống
luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà
không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy
đã tập-luyện hằng-ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh-thoảng quí cụ mới
đi lễ chùa, phải cẩn-thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của
mấy Thầy thì rất có thể mất thăng-bằng.
Thế
lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về
phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc
áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo
sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để
ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó
mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp
đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai
giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng-thời chắp
hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy
tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy
xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về
phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc
áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo
sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để
ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó
mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp
đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai
giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng-thời chắp
hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy
tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy
xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cũng
có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu,
để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai
tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe
hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục
lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và
đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.
có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu,
để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai
tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe
hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục
lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và
đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.
Thế
lạy của đàn ông có vẻ hùng-dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các
bà có tính cách uyển-chuyển tha-thướt, tượng-trưng cho âm. Thế lạy của
đàn ông có điều bất-tiện là khi mặc âu-phục thì rất khó lạy. Hiện nay
chỉ có mấy vị cao-niên còn áp-dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong
dịp lễ Quốc-Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà
thôi.
Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền-thống rất có ý-nghĩalạy của đàn ông có vẻ hùng-dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các
bà có tính cách uyển-chuyển tha-thướt, tượng-trưng cho âm. Thế lạy của
đàn ông có điều bất-tiện là khi mặc âu-phục thì rất khó lạy. Hiện nay
chỉ có mấy vị cao-niên còn áp-dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong
dịp lễ Quốc-Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà
thôi.
của người Việt ta. Nó vừa thành-khẩn vừa trang-nghiêm trong lúc cúng
tổ-tiên. Nếu muốn giữ phong-tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh-niên
phải có lòng tự-nguyện. Muốn áp-dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn
ông, ta phải tập-dượt lâu mới nhuần-nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi
việc sẽ thành.
III . Ý-Nghĩa của Lạy và Vái
Số
lần lạy và vái đều mang một ý-nghĩa rất đặc-biệt. Sau đây chúng tôi xin
trình-bày về ý-nghĩa của vái và lạy. Đây là phong-tục đặc-biệt của Việt
Nam ta mà người Tàu không có tục-lệ này. Khi cúng, người Tàu chỉ lạy 3
lạy hay vái 3 vái mà thôi.
a. Ý-Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Váilần lạy và vái đều mang một ý-nghĩa rất đặc-biệt. Sau đây chúng tôi xin
trình-bày về ý-nghĩa của vái và lạy. Đây là phong-tục đặc-biệt của Việt
Nam ta mà người Tàu không có tục-lệ này. Khi cúng, người Tàu chỉ lạy 3
lạy hay vái 3 vái mà thôi.
Hai
lạy dùng để áp-dụng cho người sống như trong trường-hợp cô dâu chú rể
lạy cha mẹ. Khi đi phúng-điếu, nếu là vai dưới của người quá-cố như em,
con cháu, và những người vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2 lạy.
lạy dùng để áp-dụng cho người sống như trong trường-hợp cô dâu chú rể
lạy cha mẹ. Khi đi phúng-điếu, nếu là vai dưới của người quá-cố như em,
con cháu, và những người vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2 lạy.
Nếu
vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý-nghĩa của ba vái này,
như đã nói ở trên là lời chào kính-cẩn, chứ không có ý-nghĩa nào khác.
Nhưng trong trường- hợp người quá-cố còn để trong quan-tài tại nhà quàn,
các người đến phúng- điếu, nếu là vai trên của người quá-cố như các bậc
cao-niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v.
v., của người quá-cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan-tài
đã được hạ-huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4
vái.
vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý-nghĩa của ba vái này,
như đã nói ở trên là lời chào kính-cẩn, chứ không có ý-nghĩa nào khác.
Nhưng trong trường- hợp người quá-cố còn để trong quan-tài tại nhà quàn,
các người đến phúng- điếu, nếu là vai trên của người quá-cố như các bậc
cao-niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v.
v., của người quá-cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan-tài
đã được hạ-huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4
vái.
Theo nguyên lý âm-dương, khi
chưa chôn, người quá-cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy
này tượng-trưng cho âm dương nhị khí hòa-hợp trên dương-thế, tức là sự
sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
b. Ý-Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Váichưa chôn, người quá-cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy
này tượng-trưng cho âm dương nhị khí hòa-hợp trên dương-thế, tức là sự
sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
Khi
đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng-trưng cho Phật, Pháp, và Tăng
(xin xem bài về “Nghĩa Đích Thực của Quy Y Tam Bảo” đã được phổ biến
trước đây và sẽ được nhuận sắc và phổ biến). Phật ở đây là giác, tức là
giác-ngộ, sáng-suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều
chánh-đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong-sạch,
thanh-tịnh, không bợn-nhơ. Đây là nói về nguyên-tắc phải theo.
Tuy-nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có
khi 4 hay 5 lạy.
đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng-trưng cho Phật, Pháp, và Tăng
(xin xem bài về “Nghĩa Đích Thực của Quy Y Tam Bảo” đã được phổ biến
trước đây và sẽ được nhuận sắc và phổ biến). Phật ở đây là giác, tức là
giác-ngộ, sáng-suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều
chánh-đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong-sạch,
thanh-tịnh, không bợn-nhơ. Đây là nói về nguyên-tắc phải theo.
Tuy-nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có
khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường-hợp
cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu-phục, nếu cảm thấy khó-khăn trong khi lạy,
ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
c. Ý-Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Váicúng Phật, khi ta mặc đồ Âu-phục, nếu cảm thấy khó-khăn trong khi lạy,
ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
Bốn
lạy để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh-thần. Bốn lạy
tượng-trưng cho tứ-thân phụ-mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây:
thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái
Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao-gồm cả cõi
âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương
vào đó để làm chỗ trú-ngụ.
lạy để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh-thần. Bốn lạy
tượng-trưng cho tứ-thân phụ-mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây:
thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái
Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao-gồm cả cõi
âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương
vào đó để làm chỗ trú-ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp-dụng thế lạy.
d.Ý-Nghĩa Của 5 Lạy và 5 VáiNgày
xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng cho ngũ-hành (kim, mộc,
thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung tức là hành-thổ màu
vàng đứng ở giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy tượng-trưng cho bốn
phương (đông, tây, nam, bắc) và trung-ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay,
trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương, quí-vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì
Tổ Hùng-Vương là vị vua khai-sáng giống nòi Việt.
xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng cho ngũ-hành (kim, mộc,
thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung tức là hành-thổ màu
vàng đứng ở giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy tượng-trưng cho bốn
phương (đông, tây, nam, bắc) và trung-ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay,
trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương, quí-vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì
Tổ Hùng-Vương là vị vua khai-sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp-dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì-giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
IV Kết LuậnPhong
tục có được là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận, nhiều khi không
giải thích được lý do tại sao lại như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng
thôi. Trong mỗi gia đình Việt Nam, dù theo đạo nào cũng vậy, chúng ta,
con dân nước Việt, hãy cố gắng thiết lập một bàn thờ gia tiên. Có như
thế, con cháu ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập bàn thờ gia tiên,
và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.
tục có được là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận, nhiều khi không
giải thích được lý do tại sao lại như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng
thôi. Trong mỗi gia đình Việt Nam, dù theo đạo nào cũng vậy, chúng ta,
con dân nước Việt, hãy cố gắng thiết lập một bàn thờ gia tiên. Có như
thế, con cháu ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập bàn thờ gia tiên,
và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.
Thờ
cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu
thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của
người Việt mà chúng ta cần phải duy trì.
cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu
thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của
người Việt mà chúng ta cần phải duy trì.
(*)
Góp ý thêm :Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời
khấn là tấm lòng của người còn sống. thì muốn khấn sao cũng được. Tuy
nhiên người xưa cũng đã đặt ra lễ khấn và lời khấn.
Lễ khấn gồm các thủ tục như sau:Góp ý thêm :Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời
khấn là tấm lòng của người còn sống. thì muốn khấn sao cũng được. Tuy
nhiên người xưa cũng đã đặt ra lễ khấn và lời khấn.
1.
Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì gia trưởng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa thì
khăn đống áo dài) đi ra mở cửa chính. Ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé
cửa chứ không đóng được cửa kín mít.
Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì gia trưởng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa thì
khăn đống áo dài) đi ra mở cửa chính. Ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé
cửa chứ không đóng được cửa kín mít.
2. Sau đó phải khấn xin Thành Hoàng Thổ địa để họ không làm khó dễ Linh về hưởng lễ giỗ.
3. Và sau đây là một đoạn khấn theo lối xưa:
Duy
.....quốc.....Tỉnh/Thị xa.... trang/gia tại... (số nhà). Việt lịch thứ
488..., thử nhật ... (ngày âm lịch) húy nhật gia phụ/mẫu/Tằng tổ v.v. là
Hiển khảo/Tỷ.. (tên) (cho đàn bà thì là hiển tỷ; với ông nội ngọai thì
thêm chữ tổ - hiển tổ khảo/tỷ), Hiếu tử/nữ/tôn v.v là (Tên) tâm thành
kính cáo thành hoàng và thổ thần bản địa, tiền chủ tiếp dẫn gia phụ
mẫu/cô di v.v. (Người được giỗ hôm nay) đồng cung thỉnh Cao tằng tổ
khảo, cao tằng tổ tỷ, liệt vị tổ tiên, hiển tổ khảo, hiển tổ tỷ, cô di
tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh sàn chứng giám. Cẩn cáo.
Cúng giỗ.....quốc.....Tỉnh/Thị xa.... trang/gia tại... (số nhà). Việt lịch thứ
488..., thử nhật ... (ngày âm lịch) húy nhật gia phụ/mẫu/Tằng tổ v.v. là
Hiển khảo/Tỷ.. (tên) (cho đàn bà thì là hiển tỷ; với ông nội ngọai thì
thêm chữ tổ - hiển tổ khảo/tỷ), Hiếu tử/nữ/tôn v.v là (Tên) tâm thành
kính cáo thành hoàng và thổ thần bản địa, tiền chủ tiếp dẫn gia phụ
mẫu/cô di v.v. (Người được giỗ hôm nay) đồng cung thỉnh Cao tằng tổ
khảo, cao tằng tổ tỷ, liệt vị tổ tiên, hiển tổ khảo, hiển tổ tỷ, cô di
tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh sàn chứng giám. Cẩn cáo.
Theo
tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên
ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã
khuất mà cúng giỗ. Ðây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình
trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người
sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên
mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng sau ăn, cũng là để cho cuộc
gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình,
chuyện làm ăn. Với ý nghĩa "Uống nước nhớ nguồn" việc đó có thể xếp vào
loại thuần phong mỹ tục.
* Ngày cúng giỗ
Ngày
giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của
tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.
giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của
tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.
Nguyên
ngày trước, "Lễ giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ"; chiều hôm trước lễ chính kỵ
có "lễ tiên thường" (nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ
vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà
con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì
bận việc hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản
lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả
hai lễ. Tóm lại, nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả
nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng
ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng.
* Mấy đời tống giỗngày trước, "Lễ giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ"; chiều hôm trước lễ chính kỵ
có "lễ tiên thường" (nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ
vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà
con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì
bận việc hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản
lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả
hai lễ. Tóm lại, nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả
nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng
ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng.
Theo
gia lễ: "Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần
chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới
mất mà thế vào thần chủ ông khảo.
gia lễ: "Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần
chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới
mất mà thế vào thần chủ ông khảo.
Theo
nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và
tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời
làm giỗ (cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can),; cụ (hay cô), ông bà,
cha mẹ. Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà
nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.
* Cúng giỗ người chết yểunghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và
tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời
làm giỗ (cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can),; cụ (hay cô), ông bà,
cha mẹ. Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà
nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.
Những
người đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc
mới có con gái, chưa có con trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng
chết, trở thành phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có
cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh
ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay
toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con
cháu người thừa tự đó tiếp tự.
người đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc
mới có con gái, chưa có con trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng
chết, trở thành phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có
cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh
ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay
toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con
cháu người thừa tự đó tiếp tự.
Những
người chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục
lệ địa phương) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với
tiên tổ. Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại
lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt
bên cạnh mân, coi như người thân còn sốngtrong gia đình. Ðiều này không
có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng vọng đối với thân
nhân đã khuất.
Giỗ tết, Tế lễngười chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục
lệ địa phương) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với
tiên tổ. Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại
lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt
bên cạnh mân, coi như người thân còn sốngtrong gia đình. Ðiều này không
có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng vọng đối với thân
nhân đã khuất.
Quan
niệm cổ xưa không riêng ta mà nhiều dân tộc trên thế giới mọi vật do
tạo hóa sinh ra đều có linh hồn, mỗi loại vật, kể cả khoáng vật, thực
vật cũng có cuộc sống riêng của nó. Mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay
vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống
đực giống cái. Ðó là xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc
trên thế giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta.
niệm cổ xưa không riêng ta mà nhiều dân tộc trên thế giới mọi vật do
tạo hóa sinh ra đều có linh hồn, mỗi loại vật, kể cả khoáng vật, thực
vật cũng có cuộc sống riêng của nó. Mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay
vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống
đực giống cái. Ðó là xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc
trên thế giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta.
Ở
ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được
nhân dân thờ cúng, coi đó là biểu tượng, nơi ẩn hiện của vị thiên thần
hay nhân thần nào đó. Người ta "sợ thần sợ cả cây đa" mà cúng cây đa, đó
không thuộc tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước
tượng Phật, tượng Chúa, lễ Thần, quì trước long ngai của thần, nhưng
thần hiệu rõ ràng, chứ không phải khúc gỗ hòn đá như tục bái vật.
ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được
nhân dân thờ cúng, coi đó là biểu tượng, nơi ẩn hiện của vị thiên thần
hay nhân thần nào đó. Người ta "sợ thần sợ cả cây đa" mà cúng cây đa, đó
không thuộc tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước
tượng Phật, tượng Chúa, lễ Thần, quì trước long ngai của thần, nhưng
thần hiệu rõ ràng, chứ không phải khúc gỗ hòn đá như tục bái vật.
Ngày
nay chỉ còn lại vài dấu vết trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà
chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng
trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi có dâu về
nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm
lánh nhưng vẫn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ tay làm vỡ bình vôi thì đem mảnh
bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vứt ở
chỗ ô uế.
nay chỉ còn lại vài dấu vết trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà
chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng
trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi có dâu về
nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm
lánh nhưng vẫn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ tay làm vỡ bình vôi thì đem mảnh
bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vứt ở
chỗ ô uế.
Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ
thiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Dân không được dùng
gỗ chò làm nhà ở. Ngày xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có
gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy.
Sưu tầmthiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Dân không được dùng
gỗ chò làm nhà ở. Ngày xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có
gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy.